Kết hợp tiêm collagen tại chỗ và điều trị phục hồi trong liệt dây thần kinh mặt kéo dài: Một thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng quy mô nhỏ

TÓM TẮT

Cơ sở: Nhiều nỗ lực phục hồi chức năng đã được thực hiện để ngăn ngừa việc giảm hoặc mất vận động cơ mặt ở bệnh nhân liệt mặt kéo dài (facial palsy – FP). Tại nhiều cơ sở lâm sàng, việc tiêm liệu pháp collagen (MDs) đã giúp cung cấp dưỡng chất cho các mô.

Mục đích: Để kiểm tra hiệu quả của phương pháp điều trị kết hợp collagen đối với những bệnh nhân FP kéo dài đang điều trị bằng phương pháp tạo thuận cảm thụ bản thể thần kinh cơ (phương pháp Kabat) (nhóm A), so với nhóm FP khác chỉ áp dụng phương pháp Kabat (nhóm B).

Thiết kế: Thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng.

Địa điểm: Trung tâm giới thiệu bệnh nhân ngoại trú cấp ba và bệnh viện đại học.

Đối tượng: 41 bệnh nhân được chẩn đoán mắc FP một bên kéo dài.

Phương pháp: sau khi phân loại ngẫu nhiên, 21 bệnh nhân nhóm A được so sánh với 19 bệnh nhân nhóm B sau 8 tuần điều trị. Kết quả đánh giá dựa trên các phát hiện điện cơ, bảng câu hỏi về chỉ số khuyết tật trên khuôn mặt (Facial Disability Index – FDI), đánh giá chất lượng cuộc sống liên quan đến sức khỏe nói chung (General health-related quality of life assessment – QOL) và phân loại lâm sàng (thang phân loại House-Brackmann, HB và synkinesis). Một phân tích tương quan được thực hiện giữa sự khác biệt trước / sau điều trị (Δ) về kết quả và các biện pháp nhân khẩu học-lâm sàng.

Kết quả: Có sự cải thiện đáng kể về điểm số điện cơ và bảng câu hỏi ở cả hai nhóm nghiên cứu. So với nhóm B, sau điều trị, bệnh nhân thuộc nhóm A biểu hiện giảm đáng kể các chuyển động không mong muốn của cơ vòng mắt (p = 0,017), mép (p = 0,015) và tăng đáng kể các chuyển động mong muốn của cơ vòng môi (p = 0,018). Nhóm A cũng cho thấy sự cải thiện đáng kể trong các thang điểm của bảng câu hỏi liên quan đến bệnh tổng thể. Mặc dù, có mối tương quan thuận giữa ∆FDI và ∆ phần trăm thực hiện các chuyển động mong muốn ở cả hai nhóm, ở nhóm A có tương quan nghịch giữa thời gian mắc bệnh và ∆ thời gian chuyển động mong muốn của cơ vòng mắt và cơ vòng miệng.

Kết luận: Sự kết hợp của các phương pháp phục hồi chức năng và tiêm collagen tại chỗ, kích thích sự tái tạo/ tái cấu trúc, đã cho thấy kết quả đáng khích lệ ở những bệnh nhân FP kéo dài.

Tác động đến phục hồi lâm sàng: Tiêm collagen tại chỗ có thể là một lựa chọn an toàn giúp tăng cơ hội cải thiện khả năng co cơ chủ động và tình trạng khuyết tật thường gặp ở những bệnh nhân FP kéo dài.

Từ khoá: liệt dây thần kinh mặt, phục hồi chức năng, collagen, điện cơ.

GIỚI THIỆU

Liệt dây thần kinh mặt (FP) là một bệnh lý thần kinh trong đó chức năng của thần kinh mặt bị mất một phần hoặc hoàn toàn [1,2]. Theo các nghiên cứu trước đây, các nguyên nhân phổ biến của liệt dây thần kinh mặt bao gồm liệt Bell’s (51%), chấn thương (22%), bệnh giời leo (7%), khối u (6%) và nhiễm trùng (4%) [2,3]. FP làm suy yếu các cơ mặt, thay đổi sự đối xứng và chức năng của khuôn mặt. Những bệnh nhân bị đứt sợi trục thần kinh (axonotmesis) và tổn thương mặt kéo dài có một số vấn đề như: khó khăn trong giao tiếp bằng lời nói, nhắm mắt, suy nhược tâm lý, rối loạn nhận dạng khuôn mặt [4], và khó ăn, uống thức ăn lỏng và rắn [5]. Sự cân xứng của khuôn mặt quyết định sự hấp dẫn, nó là dấu hiệu của sức khoẻ tốt, thu hút sự chú ý của mọi người và là phương tiện để biểu đạt cảm xúc [6]. Cùng với bệnh bại liệt vô căn, đại diện cho loại phổ biến nhất (50%), trong đó tình trạng thiếu hụt ở các mức độ khác nhau vẫn tồn tại ở khoảng 30% bệnh nhân, di chứng nặng và lâu dài (như là liệt cấp độ cao, co mặt, hiện tượng đồng động hoặc co thắt), trong các trường hợp gây ra bởi chấn thương do nhiễm trùng, chấn thương (gãy xương thái dương), ung thư hoặc tai biến (phẫu thuật tai và mang tai), ảnh hưởng đến dây thần kinh mặt dọc theo quá trình trong và ngoài sọ của nó [4,5].

Những người bị di chứng của FP có thể tìm đến các nhà vật lý trị liệu vì bác sĩ thường chỉ tiến hành các phương pháp điều trị xâm lấm như tiêm Botulinum toxin A – ức chế giải phóng acetylcholine [7] – để giảm các di chứng lâu dài như rối loạn nhịp tim và tăng kiểm soát [7,8] và phẫu thuật tái tạo [9]. Mặc dù, nhiều biện pháp can thiệp vật lý trị liệu đã được sử dụng để điều trị FP [9],  thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng không tìm thấy bằng chứng ủng hộ can thiệp này hơn so với các can thiệp khác [9], thử nghiệm ngoài việc tạo thuận lợi thần kinh cơ (phương pháp Kabat), gần đây đã chứng minh những cải thiện đáng kể ngay cả với bệnh nhân liệt mặt trong thời gian dài [7,10]. Trong nỗ lực ngăn chặn hoặc giảm thiểu những thâm hụt này, xác định phương pháp điều trị hiệu quả nhất đã được thực hiện, bao gồm thuốc, vật lý trị liệu hoặc kết hợp cả hai [6,11].

Theo đó, vật liệu sinh học cung cấp một giải pháp thay thế tiềm năng cho việc sửa chữa chấn thương [12]: lý tưởng nhất là chúng phải có khả năng tương thích tốt với mô, đủ độ bền cơ học để duy trì tái tạo cơ và dây thần kinh [12], hướng dẫn định hướng cho cơ tái sinh và sợi thần kinh [12] và thực hiện các hoạt động sinh học có thể cải thiện hiệu quả tái tạo [12-14]. Từ đó, các mô hình thử nghiệm sử dụng collagen đã được đề xuất vì tính tương thích sinh học cao, khả năng phân hủy sinh học, phản ứng sinh miễn dịch yếu [15] và khả năng thúc đẩy sự hình thành tân tạo của chất nền [16,17]. Thật vậy, nó đã được giới thiệu tại nhiều phòng khám lâm sàng, do sự sẵn có trên thị trường của liệu pháp an toàn dựa trên collagen (MDs), tiêm tại chỗ được xem như một giàn giáo sinh học tự nhiên hiệu quả, ở đó collagen sẽ thoái hoá thành các aminoacid hỗ trợ dinh dưỡng cho các mô [18,19].

Tuy nhiên, do chưa có kinh nghiệm sử dụng MDs collagen trong lĩnh vực phục hồi FP, mục đích của nghiên cứu ngẫu nhiên quy mô nhỏ này là để đánh giá hiệu quả ngắn hạn về điện cơ và lâm sàng của phương pháp điều trị dựa trên collagen đối với những bệnh nhân bị tổn thương sợi thần kinh mặt kéo dài.

Điều này được thực hiện bằng cách tiêm tại chỗ một giải pháp MDs thường được sử dụng vào một nhóm bệnh nhân theo một phác đồ điều trị thần kinh cơ dễ tiếp thu trong 8 tuần (phương pháp Kabat) (Nhóm A), so với một nhóm bệnh nhân phù hợp chỉ được điều trị với cùng một phương pháp phục hồi chức năng. thủ tục và không tiếp nhận điều trị tiêm (Nhóm B), đóng vai trò là nhóm đối chứng. Điều này được thực hiện bằng cách tiêm tại chỗ liệu pháp MDs cho một nhóm bệnh nhân với kỹ thuật tạo thuận cảm thụ bản thể thần kinh – cơ trong 8 tuần (phương pháp Kabat) (nhóm A), so với một nhóm bệnh nhân chỉ điều trị bằng phương pháp phục hồi chức năng và không điều trị tiêm (nhóm B), đây đóng vai trò là nhóm chứng.

NGUYÊN LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP

Đối tượng nghiên cứu

Nghiên cứu được thực hiện với những bệnh nhân được chẩn đoán y khoa mắc chứng rối loạn thần thần kinh mặt ngoại biên một bên kéo dài, được sàng lọc ở phòng khám ngoại trú của Trung tâm nghiên cứu phục hồi và cân bằng ITER (ICBRR) trong thời gian từ tháng 7 năm 2016 đến tháng 3 năm 2019. Bệnh nhân từ 18 đến 65 tuổi, ở cả hai giới, không cải thiện tình trạng khi điều trị bằng các biện pháp thông thường thì được đưa vào nghiên cứu của chúng tôi.

Hai nhà nghiên cứu thần kinh tai lâm sàng (M.A. và A.V., bị làm mù trong quá trình tiến hành điều trị) đã tiến hành kiểm tra bệnh sử chi tiết và khám lâm sàng, đo thính lực đơn âm (pure tone audiometry – PTA) và đo thính lực trở kháng của tất cả bệnh nhân. Các xét nghiệm thường quy như chụp điện giải đồ, chụp X-quang phổi, chụp Cộng hưởng từ não và điện tâm đồ cũng được thực hiện [20]. Họ đánh giá thêm sự bất đối xứng của khuôn mặt tư thế tĩnh và động, đồng thời kiểm tra sức mạnh cơ của cơ trán, cơ mày, cơ vòng mắt, cơ gò má, cơ nâng môi trên, cơ da cổ và cơ vòng miệng. Những phát hiện lâm sàng này được phân loại và ghi lại theo thang điểm House-Brackmann (HB) từ 1 (bình thường) đến 6 (rối loạn chức năng nặng). Đặc biệt, nghiên cứu hiện tượng đồng động mặt ở cơ vòng mi mắt, cơ vòng miệng, cơ gò má và cơ da cổ. Theo các nghiên cứu từ trước đến nay, hiện tượng đồng động mặt được phân thành nhẹ, trung bình hoặc nặng [20]. Trong nghiên cứu này, tiêu chuẩn loại trừ bệnh nhân như sau: (1) bệnh nhân bị liệt mặt do bệnh thần kinh trung ương; (2) bệnh nhân có tiền sử FP tái phát; (3) bệnh nhân bị bệnh da mặt cản trở khả năng tiêm thuốc; (4) bệnh nhân khó cử động mặt do phẫu thuật thẩm mỹ hoặc phẫu thuật mặt trước đó; (5) bệnh nhân mắc các bệnh toàn thân có thể ảnh hưởng đến điện cơ đồ vùng mặt (electromyiography – EMG); (6) bệnh nhân được các nhà nghiên cứu cho là không phù hợp. Hơn nữa, những bệnh nhân có tiển sử quá mẫn với bất kỳ thành phần nào của dung dịch collagen, phụ nữ có thai hoặc đang cho con bú, rối loạn liên kết thần kinh cơ (myastenia gravis), bệnh thần kinh vận động ngoại biên hoặc nhiễm trùng hoạt động cũng bị loại trừ.

Nghiên cứu đã được phê duyệt bởi Hội đồng đánh giá khu vực (số 650/CE Lazio 1, ngày 12 tháng 4 năm 2018) và được đăng ký trên trang web Clinicaltrials.gov với số nhận dạng NCT04353908, nó tuân thủ các nguyên tắc của Tuyên bố Helsinki và tất cả bệnh nhân đều có văn bản chấp thuận tham gia sau khi được giải thích chi tiết về nghiên cứu.

Đánh giá kết quả

Trước khi chia bệnh nhân thành hai nhóm ngẫu về giới tính, tuổi, thời gian mắc bệnh (disease duration – DD), nguyên nhân, tổn thương được thực hiện bởi máy tính và một tháng sau các phác đồ điều trị tương ứng, một nhà thần kinh học, sinh lý học thần kinh và một nhà vật lý trị liệu (M.L. và A.F., họ đều bị làm mù) đã thực hiện các đánh giá sau ở cả hai nhóm bệnh nhân (Xem lưu đồ trong Hình 1).

Hình 1: Sơ đồ các đối tượng tham gia nghiên cứu, quy trình phân loại ngẫu nhiên, các đối tượng bỏ cuộc và kết quả chính. VAS, thang điểm cường độ đau dạng hình (visuo-analogue scale – VAS); Nhóm A, đối tượng đang điều trị bằng Kabat và tiêm collagen tại chỗ; Nhóm B, các đối tượng chỉ được điều trị bằng Kabat.

ĐÁNH GIÁ ĐIỆN SINH LÝ

Kiểm tra điện cơ đối với cơ vòng mắt và cơ vòng miệng đã được thực hiện để đánh giá những thay đổi của các cơ này. Các cơ này được kiểm tra khi nghỉ ngơi và hoạt động chủ động (biên độ, thời gian và phần trăm điện thế đa pha). Theo quy trình trước đó [20], bản ghi điện cơ được phân tích về điện thế rung tự phát, mức độ tiềm năng tái tạo đa pha và hoạt động đồng động [21]. Theo các hướng dẫn tương tự [20] và xem xét bản chất của nghiên cứu, sự hiện diện của các dấu hiệu giảm tốc độ, sự thay đổi của hoạt động chủ động EMG và tính dễ bị kích thích của các phản ứng vận động thần kinh mặt được sử dụng để phân loại các phát hiện về thần kinh trong quá trình đánh giá EMG/ điện thần kinh thành hai nhóm chính sẽ giúp ích trong điều trị phục hồi/ tiêm thuốc cấp cứu, như sau:

1) Đứt sợi trục thần kinh với mức độ suy giảm trung bình: hoạt động điện tự phát biểu hiện với co giật sợi cơ, sóng nhọn dương, giảm hoạt động EMG tự nguyện, thời gian tiềm vận động nhiều hơn 5 ms, biên độ CMAP của dây thần kinh VII nhỏ hơn 1 mV. Chúng tôi sử dụng giới hạn bình thường thấp hơn (ở 2 độ lệch chuẩn) của biên độ phản ứng vận động thần kinh mặt theo dữ liệu quy chuẩn từ phòng thí nghiệm của chúng tôi (2,2 ± 0,6 mV với cơ vòng mắt; 2 ± 0,5 mV với cơ vòng miệng);

2) Đứt sợi trục thần kinh với mức độ suy giảm nghiêm trọng: hoạt động điện tự phát biểu hiện với co giật sợi cơ, sóng nhọn dương, không có hoạt động EMG tự phát, không có CMAP do kích thích sợi trục vận động của dây thần kinh số VII.

BẢNG CÂU HỎI ĐÃ ĐƯỢC PHÊ DUYỆT

Chỉ số khuyết tật trên khuôn mặt (Facial Disability Index – FDI)

FDI là một bảng câu hỏi gồm 10 mục với 2 thang điểm: 5 mục liên quan đến thang chức năng vật lý và 5 mục liên quan đến thang chức năng xã hội/ hạnh phúc. Mỗi hạng mục được đánh giá trên thang điểm 6, từ khuyết tật nặng đến khuyết tật không. Cả hai thang điểm được chuyển đổi thành điểm trên thang điểm 100, với 100 thể hiện chức năng thể chất hoặc xã hội/ hạnh phúc không bị suy giảm. Tất cả các câu hỏi được đánh giá trước một [22].

Đánh giá chất lượng cuộc sống (quality of life – QOL)

Liên quan đến sức khỏe chung. Bản khảo sát ngắn gồm 36 mục (SF-36) được sử dụng để đánh giá QOL liên quan đến sức khỏe nói chung. SF-36 là một công cụ chung đã được thiết lập, xác thực, đo lường QOL liên quan đến sức khỏe trong các quần thể bệnh nhân đa dạng [23]. Nó dựa trên một bảng câu hỏi 36 mục với tám hạng mục con và hai bản tóm tắt thành phần của QOL liên quan đến sức khỏe tâm thần và thể chất. Phiên bản Italia của SF36 đã được sử dụng trong nghiên cứu này [23].

QUY TRÌNH ĐIỀU TRỊ

Quy trình tạo thuận cảm thụ bản thể thần kinh cơ

Phục hồi chức năng bắt đầu ở cả hai nhóm bệnh nhân sau bộ công cụ chẩn đoán và được thực hiện theo Kabat và cộng sự, tức là một quy trình tạo thuận cảm thụ bản thể thần kinh cơ, 24 hai lần một tuần trong 8 tuần, bởi một nhà vật lý trị liệu có kinh nghiệm (G.A., bị làm mù trong điều trị). Thời lượng buổi phục hồi chức năng trung bình là 45 phút cho tất cả các đối tượng nghiên cứu. Phương pháp này cho thấy sự hài hòa, phối hợp và sức mạnh tối ưu của các chuyển động cơ thể trên thực tế theo các đường chéo đối với trục đứng dọc của cơ thể, do đó có tác dụng “quay”. Nó bao gồm việc tạo điều kiện thuận lợi cho phản ứng tự phát của một cơ đã bị suy yếu thông qua một mô hình chung của toàn bộ các cơ đang bị tác động. Các chi tiết khác đã được ghi lại kỹ lưỡng trong các nghiên cứu trước đây [10,24].

Điều trị tiêm

Bệnh nhân thuộc nhóm can thiệp (nhóm A) được điều trị khi ngồi thoải mái trên một chiếc ghế tựa lưng thẳng đứng với chân đặt trên một tấm thảm cao su. Một liều MD Neural, MD Matrix và MD Muscle (Guna Spa, Milan, Italia), có chứa collagen có nguồn gốc từ lợn, được tiêm dưới da sau khi thoa kem lidocain/ prilocaine (EMLA; AstraZeneca, Milan, Italia) tại vị trí tiêm, và được thực hiện bởi một bác sĩ chuyên khoa xương khớp có tay nghề cao trong lĩnh vực điều trị bằng thuốc tiêm (A.M., đã bị làm mù). Với một ống loại tiêm insulin và kim 30G, một liều khoảng 0,4 cc được tiêm vào mỗi điểm trên cơ vòng mắt cách vành mắt 1cm và trên và dưới 0,5 cm so với điểm tiêm đầu tiên; còn với cơ vòng miệng, hai điểm tiêm nằm trên ranh giới giữa phần ngoại vi và bờ môi, trên hoặc dưới môi khoảng 5 mm (hình 2A). Sau đó, xoa bóp nhẹ nhàng trên các điểm tiêm. Việc điều trị bằng tiêm được thực hiện hai lần một tuần trong 8 tuần, ngay sau buổi tập phục hồi. Bệnh nhân được chấm điểm theo thang điểm cường độ đau dạng hình (visuo-analogue scale – VAS) từ 0 đến 10 về mức độ khó chịu trong khi điều trị, điểm trung bình mỗi tuần sẽ được tính. Hơn nữa, bệnh nhân được phát một nhật ký về các phản ứng bất lợi có thể xảy ra lập tức hoặc sau đó để điền ở nhà [25].

Hình 2A: Các điểm tiêm thuốc của nhóm điều trị (Nhóm A)

XỬ LÝ DỮ LIỆU VÀ PHÂN TÍCH THỐNG KÊ

Cỡ mẫu được tính toán để phát hiện sự khác biệt giữa các nhóm trong kết quả đối với các biến điện sinh lý. Cỡ mẫu cho giả thuyết kiểm định được tính toán phù hợp với bối cảnh (mẫu độc lập và các biến liên tục), sử dụng khả năng thống kê là 80% (1 − β) với xác suất sai số α là 0,05. Chúng tôi đã sử dụng kiểm định t cho các mẫu độc lập và một tác dụng phụ là 0,80. Do đó, chúng tôi đặt mục tiêu bao gồm ít nhất 13 người tham gia mỗi nhóm. Thử nghiệm Chi-square được thực hiện để xác định mối liên hệ giữa các yếu tố và các nhóm khi nghỉ ngơi và sau khi điều trị. Trung bình và độ lệch chuẩn (SD) của tất cả các biến được đánh giá ở cả hai nhóm. Để xác định rằng dữ liệu tuân theo phân phối Gaussian, phân phối chuẩn K bình phương của D’Agostino và phép thử đồng biến của Levene đã được thực hiện (trong đó giả thuyết không là dữ liệu được phân phối bình thường). Một phân tích hỗn hợp về phương sai (ANOVA) được thực hiện với nhóm giữa yếu tố và các biến trước và sau điều trị như các yếu tố bên trong bệnh nhân. Giới tính, tuổi và DD (tính theo tháng) giữa hai nhóm có thể được sử dụng làm các yếu tố dự đoán phân loại. Mức giới hạn có ý nghĩa (α) được đặt ở giá trị p là 0,05. Hiệu chỉnh Bonferroni cho nhiều phép so sánh đã được áp dụng để kiểm tra các tác động chính đáng kể. Sau đó, phù hợp với các phác đồ trước đó [26], dựa trên bản chất khám phá của nghiên cứu, tương quan hạng Spearman đã được áp dụng trong cả hai nhóm giữa sự khác biệt trước/ sau điều trị (Δ) về điểm điện sinh lý và lâm sàng và các biện pháp nhân khẩu học-lâm sàng. Do đó, cần xem xét kích thước mẫu của nhóm này và tính chất hai đuôi của thử nghiệm, hệ số tin cậy (α) được đặt ở giá trị p là 0,05 (gói STATISTICA 7 dành cho Windows).

KẾT QUẢ

Đối tượng nghiên cứu

Trong số 41 bệnh nhân đăng ký ban đầu, sau quy trình phân loại ngẫu nhiên, một bệnh nhân thuộc nhóm B đã rời khỏi chương trình do nhập viện để phẫu thuật tiết niệu. 21 bệnh nhân thuộc nhóm A và 19 bệnh nhân thuộc nhóm B đã hoàn thành đợt điều trị trong 8 tuần và tiếp tục được theo dõi. Trong mẫu nghiên cứu của chúng tôi, việc tuân thủ điều trị cả phục hồi chức năng và tiêm là 100%. Bảng I cho thấy các khía cạnh lâm sàng-nhân khẩu học của những bệnh nhân này, bảng II và III mô tả về HB và mức độ nghiêm trọng của rối loạn thần kinh thực vật (liên quan đến 12 và 10 bệnh nhân ở nhóm A và nhóm B, tương ứng), cho thấy sự giảm, mặc dù không đáng kể, của các thông số này khi so sánh cả hai nhóm bệnh nhân FP kéo dài và đang tiếp nhận các phương pháp điều trị tương ứng. hình 2B và 2C cho thấy sự giảm dần của mức độ khó chịu theo thang điểm VAS sau mỗi tuần và giảm tái phát các phản ứng có hại được ghi trong sổ nhật ký tại nhà, điều này được ghi nhận trong 336 lần tiêm ở 16 bệnh nhân (4,6%). Ở những người này ghi nhận 7 (43,75%) và 5 (31,25%) trường hợp tụ máu nhẹ quanh mắt và quanh môi, kéo dài tối đa 7 ngày, 2 (12,50%) trường hợp đỏ da vùng quanh môi bắt đầu 6 giờ sau khi điều trị và biến mất trong vòng 12 giờ và 1 trường hợp ngứa quanh môi (6,25%) và quanh mắt (6,25%) từ 12 đến 24 giờ sau khi điều trị.

Hình 2B: Điểm khó chịu theo thang điểm VAS liên quan đến điều trị bằng thuốc tiêm trong 8 tuần

Hình 2C: Phản ứng có hại liên quan đến quá trình tiêm (n=16)

Phát hiện điện sinh

So sánh giữa các đối tượng cho thấy tỷ lệ phần trăm khả năng đa pha của hoạt động tự phát ở cơ vòng mắt và cơ vòng miệng giảm đáng kể trong cả hai nhóm bệnh nhân FP (Bảng IV). Mặt khác, phân tích tương tự đã chứng minh sự gia tăng đáng kể thời gian hoạt động tự phát của cơ vòng mắt và cơ vòng miệng trong nhóm A (hình 3A). Hơn nữa, phân tích giữa các nhóm cho thấy giảm đáng kể khả năng đa pha của hoạt động tự phát ở cơ vòng mắt (p = 0,017) và cơ vòng miệng (p = 0,015) và tăng đáng kể thời gian hoạt động tự phát của cơ vòng miệng sau điều trị ở nhóm A khi so sánh với bệnh nhân nhóm B (p = 0,018) (Bảng IV, Hình 3A).

Bảng câu hỏi đã được phê duyệt

Cả hai nhóm đều cho thấy sự cải thiện đáng kể về chức năng thể chất, chức năng Xã hội, sức khỏe tâm thần, thay đổi sức khỏe, năng lượng/ sức sống và nhận thức về sức khỏe theo bản khảo sát SF-36 sau các phương pháp điều trị tương ứng (Bảng V). Tuy nhiên, các đối tượng nhóm A cũng cho thấy một sự cải thiện đáng kể trong giới hạn vai trò – giới hạn về thể chất và vai trò – mức độ phụ thuộc về tinh thần. Khi so sánh các giá trị sau điều trị, nhóm A cho thấy sự cải thiện đáng kể về giới hạn vai trò – thể chất (p = 0,015), giới hạn vai trò – mức độ tinh thần (p = 0,014) và mức độ nhận thức về sức khỏe (p = 0,008) so với nhóm B (Bảng V).

Cuối cùng, giá trị FDI-p và FDI-s của cả hai nhóm đều được cải thiện đáng kể sau khi điều trị. Tuy nhiên, giá trị FDI-p của nhóm A sau điều trị đã tăng lên đáng kể (p = 0,02) so với điểm sau điều trị của nhóm B (bảng V, hình 3B).

Hình 3: Những thay đổi sau điều trị trong điện sinh lý và bảng câu hỏi

Phân tích tương quan

Mối tương quan thuận giữa ∆FDI-p và ∆ phần trăm khả năng đa pha của hoạt động tự phát của cơ vòng mắt và cơ vòng miệng được ghi nhận ở nhóm A (tương ứng r = 0,76 và r = 0,83) (hình 4A và 4B) và nhóm B (tương ứng r = 0,61 và r = 0,72) (hình 4C và 4D). Bên cạnh đó, các mối tương quan nghịch trong nhóm A được tìm thấy giữa DD và ∆ thời gian hoạt động tự phát của cơ vòng mắt (r = -0,69) và cơ vòng miệng (r = -0,74).

Hình 4: Mối tương quan giữa thay đổi trước/ sau điều trị về điện cơ và chỉ số khuyết tật trên khuôn mặt.

BÀN LUẬN

Nhiều nỗ lực đã được thực hiện để đánh giá hiệu quả của các loại phương pháp điều trị khác nhau trong trường hợp liệt mặt kéo dài, bác sĩ luôn mong muốn mang lại kết quả hồi phục tốt nhất cho bệnh nhân vì khả năng cải thiện cao của bệnh nhân FP sau khi điều trị [10]. Tuy nhiên, trên lâm sàng, việc diễn giải kết quả phục hồi của bệnh nhân còn phức tạp bởi các yếu tố gây nhiều như nguyên nhân của bệnh bại liệt, thời gian kể từ khi bệnh khởi phát, tuổi của bệnh nhân, sự liên quan của điều trị y tế và sự không phù hợp giữa phục hồi lâm sàng và điện sinh lý, có thể do các rào cản kỹ thuật, tác động đến việc ra quyết định và kết quả cuối cùng trong vòng một năm sau khi bệnh khởi phát [5,7,10,27].

Phát hiện đầu tiên của nghiên cứu này đã chứng minh sự cải thiện đáng kể của bệnh nhân trong thời gian hoạt động tự phát ở nhóm A và giảm tỷ lệ phần  trăm khả năng đa pha của hoạt động tự phát ở cơ vòng mắt và cơ vòng miệng ở cả hai nhóm (bảng IV, hình 3A). Hơn nữa, tỷ lệ phần trăm khả năng đa pha của hoạt động tự phát ở cơ vòng mắt và cơ vòng miệng giảm đáng kể và tăng thời gian hoạt động tự nguyện của cơ vòng miệng ở nhóm A khi so sánh với nhóm B (bảng IV). Thật vậy, một mặt, bằng chứng này có xu hướng chứng thực, mặc dù cần có các thử nghiệm ngẫu nhiên lớn hơn, nên phương pháp Kabat chính là một lựa chọn hợp lý trong điều trị bệnh nhân FP kéo dài nghiêm trọng với nguyên nhân gây bệnh khác nhau [6,10,28] và là cách tiếp cận hợp lý với tất cả các bệnh nhân trong nghiên cứu này. Mặt khác, hậu quả của FP gây ra giảm trương lực cơ/ tăng sinh cơ do sự tái cấu trúc hoặc tổ chức lại trung tâm mặt không thành công [29], phương pháp trị liệu khác (như độc tốc botulium) đã được đề xuất như một phương pháp điều trị duy nhất hoặc kết hợp với các kỹ thuật phục hồi chức năng, để giảm sự cứng đơ, hiện tượng đồng động mặt, căng thẳng và đau [7,25,30]. Theo những quan điểm này, bệnh nhân nhóm A có sự thay đổi đáng kể về thời gian và tỷ lệ phần trăm khả năng đa pha của hoạt động tự phát khi so sánh với nhóm B, có thể do tác dụng của MDs collagen. Hàm lượng amino acid của MDs collagen được sử dụng trong nghiên cứu này là glycine 22,8%, proline 13,8%, hydroxyproline 13% và trung bình là 3% các aminoacid khác (tối đa axit glutamic 9,5%; tyrosine tối thiểu 0,4%). Do đó, có thể giả thuyết rằng sự thoái biến của các amino acid cấu thành này có thể tạo thành chất dinh dưỡng hỗ trợ cho cơ bắp, như đã chứng minh trong các thí nghiệm khác, giúp mô phản ứng tích cực hơn với quá trình điều trị phục hồi [18,19]. Bằng cách tiêm sản phẩm tại chỗ, bằng tác động cơ học, collagen được cung cấp như một giàn giáo tự nhiên hiệu quả, hỗ trợ sự phát triển của tế bào, cung cấp bộ khung liên kết giữa các tế bào với tế bào [16, 31] bằng cách chuyển hướng các hiện tượng tái cấu trúc / tái tổ chức của trung tâm mặt, do đó tạo điều kiện thuận lợi cho các quá trình nhận biết các kích thích hướng tâm từ dây thần kinh sọ thứ năm [29] và/hoặc bằng cách chuyển hướng các tín hiệu của vỏ não sang các nơron vận động đơn thuần không có hiện tượng đồng động [7,13,14]. Điều này có thể đã dẫn đến việc cải thiện các thông số điện sinh lý đại diện cho các hiện tượng phân tán điện thế hoạt động và khử đồng bộ hoá phóng điện của các nơron vận động (Bảng IV) [18,19,32]. Các bằng chứng khác về những khía cạnh này có thể nằm ở khía cạnh tương quan khác nhau được tìm thấy giữa ∆FDI-p và ∆ khả năng đa pha của hoạt động tự phát của cơ vòng mắt và cơ vòng miệng. Trên thực tế, mối tương quan thuận ở cả hai nhóm đã có thể cho thấy chỉ phương pháp Kabat cũng làm tăng các hoạt động chức năng liên quan đến sức mạnh cơ [7,10], ở nhóm A cho thấy mức độ tương quan cao hơn (hình 4). Mặc dù, những nghiên cứu trước đây trên những bệnh nhân không trải qua quá trình phục hồi chức năng thần kinh mặt không phát hiện ra mối tương quan giữa EMG và FDI [33], bằng chứng này gợi ý thêm rằng tác động của việc tiêm liệu pháp MDs collagne tại chỗ có hiệu quả đối với cấu trúc của cơ và sự suy giảm của các điện thế hoạt động phức hợp có thể thúc đẩy phục hồi chức năng của hoạt động trên khuôn mặt hiệu quả hơn, mang lại tác động tích cực đến chất lượng cuộc sống [34].

Về thang điểm phụ của SF-36 và FDI, ở cả hai nhóm bệnh nhân đều cho thấy sự cải thiện đáng kể sau điều trị, mặc dù vậy sự tăng của tỷ lệ phần trăm giảm hiện tượng đồng động và mức độ nghiêm trọng HB là không đáng kể (bảng II, III, V). Tuy nhiên, các bệnh nhân nhóm A, khi so sánh với nhóm B, đã chứng minh sự cải thiện đáng kể trong các thang điểm phụ SF-36 điều tra giới hạn vai trò (thể chất và tinh thần) và nhận thức về sức khỏe, cũng như trong FDI-p (bảng V, hình 3B). Hành vi này phù hợp với các công trình nghiên cứu trước đây điều tra tác động của điều trị phục hồi và/ hoặc điều trị y tế đối với chất lượng cuộc sống nói chung và nói riêng [20,35] và xác nhận kết quả tương tự thu được trong các nghiên cứu khác thực hiện điều trị phục hồi bằng phương pháp điều trị y tế (ví dụ như tiêm độc tố botulinum) [7,25].

Như đã nhấn mạnh trước đây trong tài liệu [35], trong nghiên cứu này cũng vậy, không có bằng chứng về mối tương quan giữa chất lượng cuộc sống nói chung và điểm số khuyết tật cụ thể trên khuôn mặt. Tuy nhiên, những phát hiện hiện tại giữa các nhóm giả định có liên quan nhiều hơn đến những bệnh nhân được tiêm MDs, vì vẫn còn ít dữ liệu về chức năng xã hội của những bệnh nhân bị liệt mặt kéo dài hoặc những bệnh nhân đã trải qua các thủ thuật phục hồi khuôn mặt [35]. Mặt khác, các nghiên cứu gần đây đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đánh giá chất lượng cuộc sống nói chung ở tất cả các bệnh nhân liệt mặt, vì mức độ nghiêm trọng của suy giảm thần kinh mặt không cho thấy đầy đủ sự đau khổ của bệnh nhân và ảnh hưởng đến chức năng xã hội [34].

Cuối cùng, tương tự như các phương pháp phục hồi chức năng khác (ví dụ như liệu pháp mime), riêng phương pháp Kabat (nhóm B) đã không chứng minh được sự gia tăng kết quả so với thời gian trôi qua kể từ khi bệnh khởi phát [6]. Mặt khác, mặc dù cần có các thử nghiệm lâm sàng lớn hơn, bệnh nhân nhóm A đã chứng minh mối tương quan nghịch giữa ET và ∆ thời gian hoạt động tự phát của cơ vòng mắt và cơ vòng miệng. Phát hiện này giúp đề xuất MDs collagen như một lựa chọn an toàn, có thể kết hợp với quy trình phục hồi chức năng thích hợp, để điều trị cho những bệnh nhân FP kéo dài, không đáp ứng với các phương pháp điều trị phục hồi trước đó và/ hoặc không đủ điều kiện tiến hành phẫu thuật. Trên thực tế, phương pháp điều trị này, tương tự như các quy trình kết hợp khác được đề xuất trong tài liệu [7], đã chỉ ra rằng làm tăng kết quả của các quy trình phục hồi chỉ liên quan đến thời gian kể từ khi bắt đầu FP, bất kể nguyên nhân và mức độ của nó, nó có thể được thực hiện ngay khi bệnh nhân cần các liệu pháp điều trị khác. Hơn nữa, quy trình tiêm chứng tỏ mức độ tuân thủ của bệnh nhân, tính an toàn và khả năng dung nạp được ghi nhận trong VAS và nhật ký tại nhà (hình 2B và 2C). Thật vậy, các bệnh nhân tuân thủ điều trì và ghi lại các phản ứng có hại đối với quy trình tiêm ‘per se”, hầu hết họ thường được đề cập đến trong các kinh nghiệm về quy trình tiêm khác [25]. Tuy nhiên, không có phản ứng phụ nào được tìm thấy đối với hàm lượng của MDs collagen đã sử dụng.

HẠN CHẾ CỦA NGHIÊN CỨU

Các kết quả của nghiên cứu cần được giải thích cẩn thận vì còn một số hạn chế. Đặc biệt, do bản chất của bệnh đã hạn chế khả năng thu được cỡ mẫu lớn hơn như trong các nghiên cứu trước đó [7,28], chỉ có 41 bệnh nhân FP đủ điều kiện đăng ký tham gia. Cùng với thời gian theo dõi ngắn, cần thận trọng khi đánh giá kết quả nghiên cứu, điều này có thể cải thiện bằng cách đánh giá thêm sau thời gian theo dõi dài hơn. Cuối cùng, không có nhóm FP nào đang điều trị giả dược, không có vi phạm nào về mặt đạo đức đối khi sử dụng liệu pháp điều trị này. Trong tương lai, việc sử dụng liệu pháp MDs collagen thường xuyên là cần thiết để thực hiện các phương pháp nghiên cứu với điều trị giả dược.

KẾT LUẬN

Kết quả của nghiên cứu này đã chứng minh sự kết hợp của các phương pháp phục hồi chức năng với tiêm collagen tại chỗ là một lực chọn an toàn, mở ra một cơ hội mới để cải thiện tình trạng co cơ tự phát do bệnh nhân mắc FP lâu năm. Tuy nhiên, các nghiên cứu trong tương lai, đặc biệt là khi có cỡ mẫu lớn và theo dõi lâu hơn là cần thiết để thu được những kết quả đầy đủ hơn sau này.

BẢNG

Bảng I: Các khía cạnh lâm sàng – nhân khẩu học của bệnh nhân nhóm A và nhóm B

Bảng II: Thang điểm phân loại của House-Brackmann đối với bệnh nhân nhóm A và B trước và sau điều trị.

Bảng III: Thang điểm phân loại hiện tượng đồng động của bệnh nhân nhóm A và nhóm B trước/ sau điều trị.

Bảng IV: Thay đổi về các thông số điện sinh lý của bệnh nhân nhóm A và nhóm B

Bảng V: Sự thay đổi điểm trong bảng câu hỏi ở bệnh nhân nhóm A và nhóm B

Trích dẫn nguồn: “Combination of in-situ collagen injection and rehabilitative treatment in long-lasting facial nerve palsy: a pilot randomized controlled trial

Alessandro Micarelli1,2; Andrea Viziano3; Ivan Granito2; Giuseppe Antonuccio2; Alessio Felicioni2; Marco Loberti4; Pasquale Carlino2; Riccardo Xavier Micarelli3; Marco Alessandrini3.

(1) Viện Y học cấp cứu miền núi, Nghiên cứu Eurac, Bolzano, Italia.

(2) Trung tâm nghiên cứu phục hồi và cân bằng ITER (ICBRR), Rome, Italia.

(3) Khoa khoa học lâm sàng và y học phiên dịch, Đại học Rome ‘Tor Vergata’, Italia.

(4) DOPSITERE, Rome, Italia.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *